Nói không riêng tại các nước công nghệ phát triển, Việt Nam cũng ghi nhận sự xuất hiện của nhiều máy ảnh
bán chuyên nghiệp, chuyên nghiệp đến với nhiều người dùng. Chất lượng
cuộc sống nâng cao, giá thiết bị giảm cùng xu thế hội nhập sẽ không khó
để bạn đầu tư cho một chiếc máy ảnh. Tuy nhiên trước khi quyết định chọn
mua bạn nên làm quen với các thông số trên lý thuyết và các khái niệm
cơ bản để có những cái nhìn tổng quan về nhiếp ảnh.
Khái niệm cơ bản trong nhiếp ảnh
Mỗi thiết bị ảnh từ chiếc webcam nhỏ gọn được tích hợp trên máy tính
xách tay hay đến những chiếc máy ảnh full-frame chuyên nghiệp của Canon,
Nikon đều được xây dựng trên cùng một nguyên tắc cơ bản. Khởi nguồn của
nhiếp ảnh là một sơ đồ ghi nhận ánh sáng. Khi bạn nhìn thấy một cảnh
vật nào đó tức là các nguồn sáng đó đang gửi đến mắt bạn một bản ghi
phản chiếu ánh sáng từ vật thể.
Kỹ thuật phổ biến nhất để ghi nhận ánh sáng đó là việc thu nhận thông
qua một ống kính được kết nối với vật liệu cảm quang và ghi nhận hình
ảnh. Vật liệu hấp thụ ảnh sáng trước đây là phim mà sau này được thay
thế bằng cảm biến điện tử trên các máy ảnh kỹ thuật
số. Dù là vật liệu gì thì việc ghi nhận ánh sáng đầu tiên được thực
hiện bằng cách mở một màn trập ở đầu cảm quang. Bằng cách điều chỉnh màn
trập mở bao nhiêu lâu (tốc độ màn trập), độ nhạy của cảm biến kỹ thuật
số (ISO) và lượng ánh sáng được đi qua ống kính (khẩu độ) từ đó người
chụp sẽ làm chủ được bức ảnh ghi nhận ở cảm biến.
Vì ánh sáng là thông tin duy nhất được máy ảnh thu thập do đó những bức ảnh chụp trong điều kiện đủ sáng sẽ đẹp hơn so với những
bức ảnh chụp trong điều kiện ánh sáng yếu, phức tạp. Khi chụp ảnh thiếu
sáng, hoặc là máy phải làm việc vất vả hơn để nhạy sáng với các nguồn
sáng yếu (ISO cao hơn) hoặc ta phải chờ khoảng thời gian dài hơn để
lượng sáng đi vào ống kính nhiều hơn (tốc độ màn trập chậm hơn). Những
lúc đó đèn flash sẽ là “vị cứu tính” cho bạn. Nhưng bù lại bạn phải biết
điều chỉnh cân bằng trắng nếu không các vật thể ở gần sẽ quá sáng do
gần đèn còn các vật thể ở xa lại thiếu sáng hoặc nếu chụp chân dung chắc
chắn sẽ bị hiệu ứng mắt đỏ quen thuộc từ khi bạn chụp ảnh với đèn flash
trên điện thoại.
Cuối cùng, điều quan trọng nhất trong nhiếp ảnh là sự cân bằng. Nếu bạn
muốn chất lượng hình ảnh luôn tốt nhất có thể, bạn sẽ cần các thiết bị
chuyên nghiệp với giá cả đắt đỏ, thiết kế cồng kềnh. Nếu bạn cần một
thiết bị di động cao bạn sẽ phải chấp nhận hài lòng với chất lượng hình
ảnh mà thiết bị đó đem lại. Đó chính là lý do bạn nên đọc bài viết này
để cân đối nhu cầu và lựa chọn cho mình một thiết bị phù hợp nhất.
Các chìa khóa để kiểm soát một bức ảnh
ISO
Mức ISO được đặt trên cơ sở chuẩn hóa của Tổ chức tiêu chuẩn thế giới
(International Organization for Standardization) và ISO không chỉ thể
hiện độ nhạy sáng cho tất cả các máy ảnh chứ không riêng gì cảm biến.
Ban đầu nó được gọi là “độ nhạy phim” vì nó là đại lượng để thể hiện mức
độ hấp thụ ánh sáng trên phim và không thể thay đổi. Giờ đây với các
máy ảnh kỹ thuật số, ISO đã dễ dàng thay đổi. ISO cao nghĩa là máy (cảm
biến) sẽ dễ dàng tiếp nhận ánh sáng (nhạy sáng) và bức ảnh này sẽ sáng
hơn (nếu giữ các thông số khác không đổi). Đương nhiên bạn sẽ phải hi
sinh như chất lượng màu thay đổi đặc biệt là ảnh sẽ nhiễu hơn.
Chất lượng của cảm biến cùng bộ vi xử lý sẽ giúp giảm độ nhiễu khi tăng
ISO để bức ảnh trở nên hoàn hảo hơn. Trong thử nghiệm của phóng viên,
những thiết bị chuyên nghiệp như Canon 5D Mark III và Nikon D4 cho phép
xử lý ISO 12.800 mà chất lượng ảnh tương đương với các thiết bị ở ISO
1000.
Khẩu độ
Khẩu độ tức là độ mở của ống kính cho ánh sáng (hình ảnh) đi vào phim
hay cảm biến. Khẩu độ mở càng lớn thì lượng ánh sáng đi vào càng nhiều
và ngược lại.
Tuy nhiên khẩu độ không phải tăng theo các bậc mà có các khẩu độ phổ
biến là f/1.4 – 1.8 – 2.8 – 3.2 - … - 11 – 16 – 22… Con số trên càng lớn
tức là khẩu độ càng nhỏ. Khẩu độ quyết định đến 2 yếu tốt là độ sáng
của hình và độ sâu của ảnh. Như định nghĩa từ đầu thì khẩu độ là “cánh
cửa” cho phép ánh sáng đi vào. Nếu cửa mở càng rộng thì ánh sáng đi vào
càng nhiều và hình sẽ càng sáng hơn. Một yếu tố khác đó là độ sâu của
ảnh. Khi khẩu độ đóng càng nhỏ thì ảnh sẽ có độ sâu hơn khi là khẩu độ
mở lớn hơn. Nhiều bạn xem ảnh thường thắc mắc chụp ảnh sao cho “mờ mờ”
hậu cảnh hay nhìn các mode teen lung linh hơn chính là nhờ vào độ sâu
trường ảnh do khẩu độ quyết định. Bên cạnh đó nếu khéo léo sử dụng khẩu
lớn ta còn tạo nên bokeh với hiệu ứng ánh sáng lung linh.
Tốc độ
Ở đây với người mới làm quen với nhiếp ảnh cần chú ý. Tốc độ ta nhắc đến
không phải là khả năng chụp được bao nhiêu ảnh trong 1 giây mà là
khoảng thời gian màn trập mở để ánh sáng đi vào cảm biến.
Như ví dụ ở trên, khi ta mở cánh cửa ra ở độ rộng nhất định (cố định
khẩu độ) thì muốn ghi nhận hình ảnh ta phải cửa trên lại (màn trập
đóng). Tốc độ ở đây là thời gian mở cánh cửa trên, mở càng lâu thì ánh
sáng lọt vào càng nhiều. Tốc độ được tính bằng 1/giây với các tốc độ
tiêu biểu: 1/8000s - 1/6400s - 1/5000s - ... - 1/125s - 1/60s....1s - 2s
- ... nhưng trên máy sẽ chỉ hiển thị phần mẫu số. Tức là trên máy con
số càng lớn thì tốc độ càng nhanh, lượng ánh sáng vào càng ít.
Tốc độ chụp cũng ảnh hưởng đến chất lượng bức ảnh. Cụ thể nếu tốc độ
chụp càng chậm thì ảnh càng dễ bị rung. Trong điều kiện thiếu sáng ta
thường chụp ở tốc độ chậm để ảnh sáng hơn nhưng ảnh sẽ dễ bị nhòe đặc
biệt khi chụp vật thể di chuyển. Để khắc phục ta thường dùng chân giữ
máy cố định, cố gắng cố định vật thể hoặc dùng đến các nguồn sáng ngoài.
Ở tốc độ cao ta có thể bắt được các khoảnh khắc ấn tượng trong thể thao
thậm chí là đường bay của viên đạn. Tuy nhiên khi chụp ở tốc độ chậm
cũng mang lại những hiệu ứng nhất định ví dụ như ảnh chụp bánh xe đạp sẽ
nhòe nhòe cho ta cảm giác bánh xe đang quay hay chụp phơi sáng với các
nguồn sáng di chuyển, phơi sáng thác nước cho dòng nước chảy “mịn như
một dải lụa”
Theo Genk
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét